Giới thiệu về tinh dầu Hương Trầm
Tên tiếng Anh: Frankinsense Essential Oil
Tinh Dầu Hương Trầm là loại tinh dầu được chiết xuất từ nhựa cây Boswellia sacra. Đây là loại cây có nguồn gốc Trung Đông, phát triển ở châu Phi và khu vực Ả Rập, bao gồm Yemen, Oman, Somalia và Ethiopia, Oman, Ấn Độ. Nhựa cây được người Ai Cập cổ đại sử dụng trong các đền đài, cung điện để làm thơm và trừ tà khí. Do có mùi hương dễ chịu, giảm stress, giúp trấn tĩnh tâm lý và thở sâu, tĩnh tại nên được nhiều tu sĩ sử dụng trong việc thiền định, đặc biệt các tu sĩ Ấn Độ. Nhờ vậy, những nơi thiêng liêng và cao quý vẫn thường sử dụng chất liệu đốt tạo hương là nhựa cây này.
Thành phần tách được nhờ chiết xuất: Alpha pinen, Actanol, Bornyl Acetate, linalool, Octyl Acetate, Incensole và Incensyl Acetate.
Đặc điểm của tinh dầu Hương Trầm: Chất lỏng màu vàng nhạt, hương gỗ thơm dịu
Tác dụng: Sử dụng để sản xuất nước hoa thiên nhiên; sản xuất các sản phẩm chăm sóc da và sức khỏe
————————————–
Phần đọc thêm:
Tài liệu và những huyền thoại về Hương Trầm
Nguồn gốc lịch sử của việc sử dụng Hương Trầm
Ngay từ thuở ban đầu của lịch sử cho tới hiện nay, hương thơm và các mùi quyến rũ đã được cho là một yếu tố thiết yếu trong đời sống con người. Về mặt tôn giáo hương thơm dùng dâng cúng thượng đế, thánh thần, hương thơm dùng thanh khiết (purification) tâm hồn. Về thể xác hương thơm dùng để thư dãn, giao hảo và gợi tình. Anh ngữ perfume có gốc Latin per funum có nghĩa là ‘bằng khói’. Perfum gốc nghĩa là ‘xông’ khói, xông hơi (có hương thơm). Từ incense có gốc Pháp ngữ cổ encens, từ Latin incensum có nghĩa đen là ‘thứ đem đốt’ (lấy khói). Frankincense do Pháp ngữ cổ franc incense (franc, quí, thật) có nghĩa là nhựa đốt trân quí, thứ thật, thứ tốt. Hương thơm (sau này gia vị) nhập cảng từ vùng Bán Đảo Arabia đã tạo ra những lối mòn giao thương tới Phi Châu và qua Địa Trung Hải tới khắp Âu châu và về phía đông tới Á châu (Ấn Độ, Trung Hoa). Hương thơm quan trọng nhất là nhựa thơm frankincense (hương trầm) và myrrh.
Hình 1: Những đường giao thương tới Phi Châu và qua Địa Trung Hải tới khắp Âu châu và về phía đông tới Á châu (Ấn Độ, Trung Hoa).
Từ ngàn xưa nhựa thơm frankincense được đốt lên dùng dâng hiến cho thần thánh ở Hy Lạp, La Mã và Ai Cập cổ. Khói trắng bốc lên coi như là chuyên chở lời cầu nguyện lên tới cõi trên. Ai Cập cổ còn dùng cả trong ướp xác. Ngoài ra còn dùng để xông hương quần áo và khử mùi hôi.
Sự gia súc hóa lạc đà vào khoảng năm 1.2000 TDL giúp phát triển mạnh sự giao thương nhựa thơm frankincense từ vùng nam Bán Đảo Arabia tới Ai Cập, Hy Lạp và La Mã.
Trong nền văn hóa Ai Cập
Nhựa thơm frankincense đã buôn bán tới Bắc Phi (Ai Cập cổ) hơn 5.000 trước đây.
Một tấm tranh tường ở đền Nữ Hoàng Ai Cập Hatshepsut (chết năm 1458 TDL) ghi lại một bao nhựa thơm frankincense. Bà được coi là nhà trồng tỉa đầu tiên của thế giới. Những con thuyền thám du của bà đi tới vùng Punt (Eritrea, Somalia, Nam Bán Đảo Arabia), khi trở về mang theo 31 cây nhựa thơm frankincense.
Hình 2: Một tấm tranh tường ở đền Nữ Hoàng Ai Cập Hatshepsut (chết năm 1458 TDL) ghi lại một bao nhựa thơm frankincense.
Cây được đánh và bó rễ rất cẩn thận. Khi đem về được trồng trong vườn Đền Lăng Mộ Deir el Bahari của Hatshepsut.
Như đã nói ở trên, người Ai Cập cổ dùng nhựa thơm frankincense để thờ phượng thượng đế, cho hương vị rượu và ướp xác (cùng với nhựa myrrh). Khi Howard Carter mở ngôi mộ của Pharaoh Tutankhamun năm 1922, Lucas, một hóa học gia khi phân tích các cục hương thơm thấy chúng có thể là làm bằng bột nhựa thơm frankincense. Đem đốt lên, khói vẫn còn mùi thơm sảng khoái sau 3.500 năm.
Trong nền văn hóa Hy Lạp
Truyền thuyết Hy Lạp đã nhắc tới loại nhựa thơm frankincense từ lâu. Apollonius hiến tế bằng cách ném nhựa thơm frankincense vào lửa rồi quan sát khói bay lên. Nữ thần Venus tức giận với thần mặt trời Sol (Helios) vì đã mách cuộc ngoại tình của bà với thần Mars cho chồng bà là thần Núi Lửa Vulcan (Hephaestus) biết. Để báo thù, Venus khiến Sol tương tư với Leucothoe. Em gái của Leucothoe là Klythie lại yêu Sol nên ghen tuông, mách cha chị dan díu với Sol. Vì vậy Leuothoe bị cha chôn sống. Sol muốn cứu Leucothoe sống dậy bằng cách đổ mật hoa của thượng đế lên người nàng nhưng thân xác nàng tan chẩy và chỗ đó mọc lên một cây nhựa thơm frankincense. Vì thế mà cây nhựa thơm frankincense liên hệ với mặt trời, với Sol và cây nhựa thơm frankincense chỉ mọc ở nơi có mặt trời chói chang, nóng bỏng (đất sa mạc) (hellenicgods.org/frankincense).
Sử gia Hy Lạp Herodotus đã nói tới nhựa thơm frankincense và cách thu hoạch nhựa này. Trong Naturalis Historia, Theophrastus cũng nói tới nhựa này.
Trong nền văn hóa La Mã
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhựa thơm frankincense dùng trong mai táng La Mã ở Britain đăng trong Journal of Archaeological Science.
Ngoài việc dùng trong các giáo vụ, nhựa thơm frankincense còn được đốt lên để tưởng nhớ người vừa lìa đời ra đi. Lịch sử ghi lại rằng Hoàng đế La Mã Nero, sau cái chết của một ái phi, đã đốt hết cả số thu hoạch của một vụ mùa nhựa thơm frankincense, khiến không còn nhựa dùng vào việc khác, phải chờ vụ mùa tới.
Người La Mã nhập cảng 3.000 tấn nhựa thơm frankincense một năm và trả bằng vàng cho thương buôn Ả Rập. Như đã biết qua bài viết Jordan: Petra, Thành Phố Hồng, Một Kỳ Quan Thế Giới Mới, người Nabatea ở Petra Jordan giàu mạnh nhờ nhựa thơm frankincense và đã xây được Thành Phố Hồng hay Thành Phố Đá Petra, một kỳ quan mới của thế giới.
Về sau La Mã khánh tận vì không còn vàng nữa.
Trong văn hóa Thiên Chúa Giáo
Nhiều văn bản kể cả cựu ước cũng thường nói tới nhựa thơm frankincense.
Nhựa thơm frankincense dùng rộng rãi trong Thiên Chúa giáo kể cả Đông Chính Thống giáo (Eastern Orthodox), Chính Thống giáo Đông Phương (Oriental Orthodox) và Thiên Chúa giáo La Mã.
Theo sách Phúc Âm (gospel) Matthew 2: 11 vàng, nhựa thơm frankincense và myrrh là những phẩm vật kính dâng chúa Jesus bởi Magi, Ba Nhà Thông Thái “từ phương Đông”.
Ba Nhà Thông Thái mang mỗi người một món quà kính dâng chúa Jesus là vàng, nhựa thơm frankincense và nhựa thơm myrrh. Vàng được cho là biểu tượng của vương quyền cõi thế gian, nhựa thơm frankincense biểu tượng cho giáo phẩm và myrrh (dùng làm dầu tẩm liệm) biểu tượng cho sự chết.
Thiên Chúa giáo dùng dầu nhựa thơm frankincense làm lễ xức dầu cho trẻ sơ sinh, dùng trong lễ thành nhân hay các giai đoạn quan trọng của đời người.
Ngày nay có nơi, nhà thờ vẫn dùng nhựa thơm frankincense.
Do Thái Giáo
Nhựa được dùng ở các bàn thờ đặc biệt ở Đền Jesusalem và các đền thờ khác.
Hình 4: Bàn thờ đốt hương thơm ở Đền Mount
Nhựa thơm frankincense là một hương thơm dâng cúng (HaKetoret) đã được mô tả trong Kinh Thánh Do Thái và Talmud dùng trong lễ tế Ketoret. Đặc biệt là rượu Talmud Babylon trộn với nhựa thơm frankincense. Các phụ nữ ở Jesusalem đem rượu này cho các tử tội uống để làm tê mê cảm giác.
Trong Kinh Thánh Do Thái Exodus có nhắc tới tên nhựa thơm frankincense gọi là levonah (lebonah) có nghĩa là ‘trắng’ trong Do Thái ngữ. Trắng là mầu nhựa khi mới chẩy ra trắng như sữa (xem dưới). Cựu Ước ghi lại sự giao thương nhựa thơm frankincense từ Sheba, nhựa thơm frankincense cũng được nhắc trong thánh ca Solomon.
Ấn Độ Giáo
Ngoài những việc dùng nhựa thơm frankincense kể trên, người Ấn Độ còn dùng nhựa thơm frankincense làm thuốc dân gian Ayurvedic (xem dưới).
Hồi Giáo
Ngoài những công dụng tôn giáo nêu trên, Hồi giáo Abrahamic cũng như Thiên chúa giáo dùng dầu nhựa thơm frankincense làm lễ xức dầu cho trẻ sơ sinh, dùng trong lễ thành nhân hay các giai đoạn quan trọng của đời người.
Nhựa thơm frankincense được cho là dùng để trị chứng quên (forgetfulness) trong sách ‘Chữa Trị với Y Học Tiên Tri (‘Healing with the Medicine of the Prophet’) của Ibn Qayyim al Jawziyyah.
Y học Tiên Tri là chữa bằng các hướng dẫn của đấng tiên tri.
Công dụng khác của nhựa cây Frankincense:
Nhựa thơm frankincense ngoài dùng trong tín ngưỡng, thanh khiết (purification), hương thơm còn được dùng:
Khói nhựa thơm frankincense có thể xua đuổi muỗi dùng phòng chống sốt rét và các chứng bệnh khác do muỗi truyền bệnh.
Ở Ấn Độ nhựa thơm frankincense (Boswellia serrata), thường gọi là “dhoop” dùng trong y học cổ truyền Ayurvedic để chữa thấp khớp, vết thương, gia tăng hệ kích thích tố nữ và làm trong sạch không khí. Dùng nhựa thơm frankincense dhoop trong Ayurvedic gọi là “dhoopan“.
Ở Somali, Ethiopian, Bán Đảo Arabia và Ấn Độ cho là đốt nhựa thơm hàng ngày trong nhà đem lại khỏe mạnh.
Dầu frankincense cũng dùng chữa sâu bọ cắn như bị ong, bọ cạp đốt.
Các thông tin về cây Frankincense.
Cây frankincense thuộc giống Boswellia trong họ Burseraceae, đặc biệt giống tốt nhất được coi là thiêng liêng (sacra) là Boswellia sacra (B. bhaw-dajiana) mọc ở Dhofar, Salalah.
Cây frankincense thấy ở Salalah, Oman, Somalia, Ethiopia, Yemen, nam Bán Đảo Arabia và Ấn Độ.
Sa mạc ở vùng Dhofar nam Oman là nguồn nhựa thơm frankincense trân quí nhất, thiêng liêng Boswellia sacra. Cây frankincense cần hơi ẩm về đêm hay mưa trong vài tuần để tạo ra nhiều nhựa. Dhofar là vùng sa mạc nhưng có gió, mưa mùa nên là vùng hạp phong thổ nhất cho cây frankincense. Tên frankincense phát gốc từ vùng Dhofar này, như đã nói ở trên, có gốc từ Pháp ngữ cổ ‘franc incense’ có nghĩa là hương thơm đích thực, trân quí, hảo hạng. Cây có thể mọc ở đất cát, đá và cũng có thể mọc trên đá không có đất. Vùng duyên hải Somalia, cây nhựa thơm frankincense mọc từ đá cẩm thạch không có đất.
Cây Boswellia sacra khi mọc trên đá không có đất phần thân gần gốc to phình ra để giúp cho cây đứng vững chống lại gió to.
Hình 5: Cây Frankincense mọc trên đá
Những cây mọc trên đất bằng thân không phình ra.
Ở Oman, nhựa thơm frankincense do dân du mục Bedouins thâu hoạch. Sở hữu cây truyền từ đời này qua đời khác. Thu hoạch nhựa đều lấy sau khi làm nghi thức tế lễ trời đất, thượng đế.
Họ dùng một thứ dao đặc biệt để rạch vỏ cây (như cạo mủ cao su) hay vạt vỏ cho nhựa mầu trắng như sữa ứa ra.
Nhựa Ả Rập ngữ gọi nhựa trắng này là al lubán có một nghĩa là sữa. Nước như đã nói ở trên, Do Thái ngữ là lebonah. Nước Lebanon có gốc từ lubán bởi vì Lebanon được gọi theo các đỉnh núi có tuyết vạn niên trắng như sữa. Lubán, sữa có nghĩa gốc là nước. Sữa là thứ nước dinh dưỡng đầu tiên con người uống. Pháp ngữ lait, sữa: lait /le/ = Việt ngữ le, nước, chim le le là loài chim nước. Từ láy lỏng le có le = lỏng. Tây Ban Nha ngữ leche, sữa. Từ láy bốn lỏng le lỏng lét có thành tố le là lait (Pháp ngữ) và lét là leche. Lubán có lu- = Việt ngữ lũ, lụt.
Lubán = le = lait = lỏng = lét = leche = lũ = lụt. Lubán Anh ngữ hóa thành olibanum.
Cũng nên biết thêm từ myrrh có gốc từ Do Thái ngữ murr hay muror có nghĩa là đắng vì nhựa có vị đắng. Murrh, murr biến âm với Việt ngữ mật (đắng). Theo m = b, ta có myrrh = murr = mar- = mật = Anh ngữ bile /bai/ mật (mật gan).
Nhựa gặp không khí oxýt hóa cứng lại gọi là giọt nước mắt (đích thực là giọt nước mắt của cây bị thương tổn).
Những cây khỏe mạnh lấy nhựa trong ba năm liền rồi cho nghỉ một thời gian. Mỗi cây có thể sản xuất từ 3 tới hơn 10 kg hàng năm.
Nhựa gồm những chất thơm terpene, sesquiterpene và diterpene.
Nhựa có nhiều loại và phẩm chất dựa trên vùng cây mọc, mầu sắc, độ tinh khiết, hương thơm, tuổi và hình dạng. Mầu bạc và Houjari thường được xem là tốt nhất.
Hình 6: Nhựa cây Frankincense khô
Nghiên Cứu Y Học
Hiện đang nghiên cứu dùng nhựa thơm frankincense trong việc chữa chứng sưng ruột già lở loét (ulcerative colitis), suyễn và thấp khớp và cũng nghiên cứu về các phản ứng phụ khi dùng lâu dài.
Ngoài ra năm 2008, có tường trình cho là nhựa thơm frankincense có thể là một thứ thuốc trị tâm thần như trầm cảm, ưu uất. Một tường trình trong năm 2009 cho rằng dầu nhựa thơm frankincense có thể phân định được tế bào ung thư bọng tiểu với tế bào bình thường và ngăn cản sức sống của tế bào ung thư.
Năm 2012, một khảo cứu cho thấy một hóa chất trong nhựa thơm frankincense có khả năng giết tế bào ung thư và phá hủy tế bào ung thư buồng trứng.
Dĩ nhiên đây mới chỉ là những quan sát tiên khởi, con đường còn dài để trở thành một thứ thuốc xử dụng được. Không nên dùng ngay.
Ngoài ra nhựa thơm frankincense cũng được dùng trong kem đánh răng, thực phẩm, rượu.
Nhựa thơm frankincense đã mở ra những lối mòn giao lưu văn hóa thơm ngát giữa Tây và Đông từ trên 5.000 năm nay.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.